Thursday, November 19, 2020

[Dạo chân danh tác] “Kanzen Muketsu no Rock'n' Roller” của Aladdin là “nhất khúc nhập hồn”


SmartFLASH (31.01.2020)
(*)“nhất khúc nhập hồn”: Dồn hết tâm hồn vào một bài hát.

Tầng 2 một tòa nhà cũ tại Kanda, Tokyo. Đó là một bar nhạc Kayokyoku, nơi các quý ông quý bà tề tựu hàng đêm và cùng nhau thể hiện kho kiến thức thâm sâu của mình. Đêm nay, bài hát ấy lại vang lên từ hệ thống hữu tuyến.

Khách: Ô, đoạn nhạc mở đầu này… là “Kanzen Muketsu no Rock'n' Roller” (Rock'n' Roller hoàn mỹ) của nhóm Aladdin, cái bài bắt đầu bằng câu “Orette Big?” ấy nhỉ. Là bài hát độc đáo nhất trong lịch sử Grand Prix của Yamaha Popcon (Popular Song Contest) đấy.

Chủ quán: Vâng, bài hát đã tỏa sáng tại Grand Prix mùa thu năm 1981. Nhưng có không ít ý kiến rằng “Đừng có trao Grand Prix cho một bài hát bỡn cợt vậy chứ!”.

Khách: Đúng vậy. Vì Popcon là “Koshien của âm nhạc” đã sản sinh ra Nakajima Miyuki và Twist mà.

Chủ quán: Chính vì đó là Koshien, nên quả thật đối với thủ lĩnh Takahara Kei của Aladdin, bài hát lại càng là “một ca khúc nhập thần” thay vì “một cú ném nhập thần” đấy.

Trước đó họ đã xuất hiện tại Popcon 10 lần nhưng đều không có kết quả, họ hướng đến lần đại hội này với tâm thế không còn đường lui. Nghĩ rằng nếu không để lại ấn tượng sẽ không thắng nổi, nên họ đã dồn hết tài năng vào ca khúc này. Ví dụ, đoạn nói chuyện bằng giọng trầm ở đoạn intro, và giọng cao rít khi hát hoàn toàn khác nhau.

Khách: Phải phải.

Chủ quán: Sau này anh ấy cho biết “Tôi nhắm đến sự khác biệt, bằng cách sử dụng phù hợp giữa giọng thấp nhất và cao nhất của mình”. Đoạn đầu là trích dẫn hài “Snakeman Show” của Ibu Masatou, đưa vào điệu bắt nhịp của Akita Ondo, và điệp khúc là Yokohama Ginbae đó.

Khách: Intro ấn tượng, điệp khúc bắt tay, những câu gọi đáp với dàn đồng ca nữ, cảm giác sống động tuyệt vời, rõ là một bài hát như lật đổ hộp đồ chơi vậy.

Chủ quán: Trong cuộc đấu bằng tính ấn tượng này, họ đã giành được Grand Prix một cách ngoạn mục.

Khách: Tuy nhiên, sau đó lại không kéo dài lâu nhỉ.

Chủ quán: Anh ấy cũng thừa nhận điều đó, và thành thật nói rằng “Tôi đã cược tất cả vào ca khúc này, nên sau đó tôi chẳng còn mục tiêu hay chiến lược nào cả”.

Khách: Hóa ra đó là lý do nó được gọi là “một ca khúc nhập thần” nhỉ. Đến giờ tôi vẫn còn lẩm nhẩm hát theo, chỉ vì tính ấn tượng của nó ha.
Ô, bài hát tiếp theo là…

■ Viết / Yasuno Toshihiko
Nhà văn phát thanh phụ trách “Good! Morning” (TV Asahi)... Đang kinh doanh “80-nendai Sakaba Bushitsu” (CLB bar thập niên 80) tại Kanda.

Tài liệu tham khảo: “Shouwa 40-nen Otoko Vol.34” (Crete Publishing) 

Wednesday, November 18, 2020

[Dạo chân danh tác] “Machibuse” của Ishikawa Hitomi là ca khúc đã “mai phục” 4 năm.


SmartFLASH (24.01.2020)
Tầng 2 một tòa nhà cũ tại Kanda, Tokyo. Đó là một bar nhạc Kayokyoku, nơi các quý ông quý bà tề tựu hàng đêm và cùng nhau thể hiện kho kiến thức thâm sâu của mình. Đêm nay, bài hát ấy lại vang lên từ hệ thống hữu tuyến.

Khách: Ô, đoạn nhạc mở đầu này… là “Machibuse” (Mai phục) của Ishikawa Hitomi. “Em luôn thích anh tận sâu trong tim mình”, nếu nghe hoài thì sợ thật ha, thời nay sẽ bị gọi là bám đuôi đó.

Chủ quán: Bài này vốn được Yuming cung cấp cho Miki Seiko làm single debut vào năm 1976, phiên bản của Miki cũng có vị lắm. 5 năm sau Ishikawa Hitomi hát và gây tiếng vang lớn, nhưng anh có biết, thật ra cô ấy đã “mai phục” ca khúc này suốt 4 năm không?

Khách: Là thế nào vậy?

Chủ quán: Ishikawa Hitomi từ nhỏ đã muốn trở thành ca sĩ, cô theo học học viện âm nhạc ở Nagoya, và xuất hiện trong chương trình “Kimi Koso Star da!” (Chính bạn là Ngôi sao!) (FujiTV). Khi tốt nghiệp trung học, cô ấy đã thuyết phục bố mẹ rằng “Xin hãy cho con được cố gắng, trong 4 năm”, và đi đến Tokyo.
Hoạt động giải trí từ đầu rất thuận lợi, cô ấy sớm ra mắt với vai trò ca sĩ, năm sau đó còn tham gia lồng tiếng trong “PurinPrin Monogatari” của NHK…

Khách: Tôi có xem “PurinPrin Monogatari”! Bonbon, Osage, Kaseijin, Monkey đi vòng quanh thế giới để tìm kiếm quê hương đấy nhỉ.

Chủ quán: Anh nhớ rõ đấy. Nhưng đến năm thứ 3 thì cô ấy bắt đầu mất kiên nhẫn “Cứ thế này hoài thì tệ thật”. Lý do là, cô ấy không có bài hit.

Khách: Ừ nhỉ, tôi chẳng hề biết cô ấy đã hát gì trước “Machibuse” cả.

Chủ nhân: Không có bài hit, mà thời hạn 4 năm đang đến gần!
Vì vậy, vừa đúng sau bài hát gốc thứ 10, cô ấy đã định bỏ làm ca sĩ nếu như lần này không bán chạy. Và “Machibuse” đã đến như là ca khúc ứng cử cho single.

Khách: Xuất hiện rồi, bài hát định mệnh!

Chủ quán: Đúng, thực tế, đây quả là bài hát định mệnh, vì lần đầu nghe nó trong bài học ở trường âm nhạc từng theo học, cô ấy đã mê mẩn đến mức chạy đi mua đĩa ngay trong ngày hôm ấy.
Thế nên, cô ấy đã thu âm nó với tâm lý rằng, cho dù “Machibuse” có không bán chạy và sự nghiệp ca sĩ kết thúc, cô ấy cũng không hối tiếc. “Machibuse” là ca khúc đã giữ chân cô ấy ở lại thế giới giải trí, đến bây giờ cô ấy vẫn rất thích hát nó.

Khách: Trùng hợp thật, một ca khúc đã “mai phục” suốtttt 4 năm ư. Ô, bài hát tiếp theo là…


■Viết / Yasuno Toshihiko
Nhà văn phát thanh phụ trách “Good! Morning” (TV Asahi)... Đang kinh doanh “80-nendai Sakaba Bushitsu” (CLB bar thập niên 80) tại Kanda.

Tài liệu tham khảo: “Shouwa 40-nen Otoko Vol.48” / “Ijuuin Hikaru to Rajioto” (TBS Radio, phát sóng ngày 10/10/2018)

[SONG] 霧笛が俺を呼んでいる - 赤木圭一郎 ◆ Muteki ga Ore wo Yondeiru (1960) - Akagi Keiichiro


Akagi Keiichiro (1939), tên thân mật “Tony”, khởi nghiệp diễn viên vào năm 19 tuổi trong bộ phim điện ảnh do Ishihara Yujiro đóng chính “Kurenai no Tsubasa”, trong vai diễn quần chúng Akatsuka Chikahiro, cũng là tên thật của anh.

Akagi đã tham gia 26 bộ phim trong sự nghiệp 3 năm ngắn ngủi của mình. Trong đó đóng chính hơn 20 bộ phim hành động, nổi bật là series “Kenju buraichou” và “Muteki ga Ore wo Yondeiru”, được gọi là “người đàn ông thứ 3” với tư cách diễn viên hành động của Nikkatsu, sau Kobayashi Akira (Might Guy) và Ishihara Yujiro (Tough Guy). Anh cũng được gọi là “James Dean Nhật Bản” vì vẻ ngoài của mình.

Vào vai chàng thủy thủ nhiệt huyết từ thời niên thiếu trong “Muteki ga Ore wo Yondeiru” (1960), anh được đánh giá là “diễn viên của Nikkatsu hợp nhất trong hình ảnh thủy thủ”. Anh cũng được trao giải Élan d'or dành cho người mới vào năm 1960.

Akagi qua đời ở tuổi 21 (1961) vì một tai nạn trên trường quay “Gekiryuu ni Ikiru Otoko”, khi anh thế vai cho Ishihara Yujiro đang bị thương.

Về sự nghiệp ca sĩ, kể từ bộ phim “Kenju burai-cho Nuki uchi no ryu”, Akagi đã tự mình hát các ca khúc chủ đề phim và có nhiều bài hit. Các bản thu âm lúc còn sống gồm tổng cộng 25 ca khúc.

霧笛が俺を呼んでいる - 赤木圭一郎
Muteki ga Ore wo Yondeiru - Akagi Keiichiro
“Tiếng còi sương mù đang gọi tôi”

作詞:水木かおる
作曲:藤原秀行
Lời: Mizuki Kaoru / Nhạc: Fujiwara Hideyuki

霧の波止場に 帰って来たが
待っていたのは 悲しいうわさ
波がさらった 港の夢を
むせび泣くよに 岬のはずれ
霧笛が俺を 呼んでいる
kiri no hatoba ni kaettekita ga
matteita no wa kanashii uwasa
nami ga saratta minato no yume wo
musebinaku yo ni misaki no hazure
muteki ga ore wo yondeiru
Tôi trở về bến cảng lúc sương mù
Chờ đợi tôi là một tin đồn buồn bã
Cơn sóng cuốn sạch giấc mơ nơi bến cảng
Tiếng còi sương mù đang gọi tôi
Khóc nức nở ngoài xa mũi đất
錆びた錨に からんで咲いた
浜の夕顔 いとしい笑顔
きっと生きてる 何処かの町で
さがしあぐねて 渚にたてば
霧笛が俺を 呼んでいる
sabita ikari ni karande saita
hama no yuugao itoshii egao
kitto ikiteru doko ka no machi de
sagashi agunete nagisa ni tateba
muteki ga ore wo yondeiru
Đóa hoa muống biển nở vương trên mỏ neo hoen gỉ
Gương mặt tươi cười thân yêu,
Chắc chắn vẫn đang sống, nơi thành phố nào đó
Tiếng còi sương mù đang gọi tôi
Nếu tôi đứng bên bờ biển, mệt mỏi vì tìm kiếm
船の灯りに 背中を向けて
沖をみつめる 淋しいかもめ
海で育った 船乗りならば
海へ帰れと せかせるように
霧笛が俺を 呼んでいる
fune no akari ni senaka wo mukete
oki wo mitsumeru sabishii kamome
umi de sodatta funanori naraba
umi e kaere to sekaseru you ni
muteki ga ore wo yondeiru
Quay lưng lại với ánh đèn tàu,
Con mòng biển buồn bã nhìn chăm chú ra khơi xa
Nếu là một thủy thủ lớn lên trên biển
Tiếng còi sương mù đang gọi tôi
Thúc giục tôi nhanh trở về biển cả.

[SONG] Stand by me, Stand by you. (2020) - 平井 大 ◆ Hirai Dai


Lời: EIGO (ONEly Inc.), Hirai Dai
Nhạc: Hirai Dai

今日はキミの寝顔見てから
眠るって決めていたのに
気づけばキミの腕の中で寝てた
kyou wa kimi no negao mitekara
nemuru tte kimeteita noni
kidukeba kimi no ude no naka de neteta
Hôm nay anh đã định rằng,
Sẽ ngủ sau khi nhìn thấy gương mặt em say giấc,
Nhưng khi nhận ra thì mình đang ngủ trong vòng tay em rồi.
「行ってくるね」と手を振るボク
キミは決まってかざすピースサイン
んー、やっぱりキミには勝てないみたい
“ittekuru ne” to te wo furu boku
kimi wa kimatte kazasu peace sign
n-, yappari kimi ni wa katenai mitai
Anh vẫy tay bảo “Anh đi nhé”
Y như rằng em giơ tay lên làm dấu hiệu chữ V
Ừm, quả thật anh dường như chẳng thể thắng nổi em
探していたんだずっと
もう迷わない ここからはじめよう
sagashite itanda zutto
mou mayowanai koko kara hajimeyou
Anh đã luôn tìm kiếm bấy lâu nay,
Thôi không do dự nữa, anh sẽ bắt đầu từ đây
これは 75億分の一人と
一人が出会って恋に落ち
そして当たり前のようにキスする
ありきたりな話さ
一人は出来の悪い男で
もう一人はお転婆なプリンセス
男が言う 'キミと出会う為にボクは生まれてきた'
kore wa 75 oku bun no hitori to
hitori ga deatte koi ni ochi
soshite atarimae no you ni kisu suru
arikitari na hana sa
hitori wa deki no warui otoko de
mou hitori wa otenba na princess
otoko ga iu “kimi to deau tame ni boku wa umaretekita”
Đây là một người gặp gỡ và phải lòng
Với một người trong số 7.5 tỷ
Và trao nhau nụ hôn như một lẽ tất nhiên
Một câu chuyện thường tình
Một người là gã trai hư
Còn một người là nàng công chúa tinh nghịch
Người con trai nói “Anh sinh ra là để gặp em”
Baby stand by me
I will stand by you
(Baby hãy luôn bên cạnh anh
Anh sẽ luôn cận kề cùng em)
いつもは興味ないふりして
不意に仕事 褒めるキミが好き
これなら一生がんばれそうさ
itsumo wa kyoumi nai furishite
fui ni shigoto homeru kimi ga suki
kore nara isshou ganbare sou sa
Anh thích em, người lúc nào cũng giả vờ không quan tâm
Rồi đột nhiên ngợi khen anh trong công việc
Chỉ như thế, anh dường như có thể cố gắng cả đời
気づかれないように手を抜く
ダメなボク見つけ叱るキミも好き
んー、一生キミに勝つのは無理だ
kidukarenai youni te wo nuku
dame na boku mitsuke shikaru kimi mo suki
n- , isshou kimi ni katsu no wa muri da
Anh làm qua loa để không bị nhận ra
Anh cũng thích em, đã mắng khi thấy được mặt chưa tốt của anh
Ừm, cả đời này anh chẳng thể thắng nổi em
憧れていたんだずっと
やっと手に入れたこの幸せ 離さない
akogarete itanda zutto
yatto te ni ireta kono shiawase hanasanai
Anh đã luôn mong ước bấy lâu nay,
Niềm hạnh phúc cuối cùng anh đã có được, anh sẽ không buông tay
それは 75億分の一人と
一人が出会って恋に落ち
家族になり愛を深め歳をとる
ありきたりな話さ
一人は出来の悪い白髪で
もう一人は永遠のプリンセス
二人は言う '生まれ変わってもまた一緒になろう'
sore wa 75 oku bun no hitori to
hitori ga deatte koi ni ochi
kazoku ni nari ai wo fukame toshi wo toru
arikitari na hana sa
hitori wa deki no warui shiraga de
mou hitori wa eien no princess
futari wa iu “umare kawattemo mata issho ni narou”
Đấy là một người gặp gỡ và phải lòng
Với một người trong số 7.5 tỷ
Trở thành gia đình, yêu sâu đậm rồi già đi
Một câu chuyện thường tình
Một người là lão già hư hỏng với mái tóc bạc phơ
Còn một người mãi mãi là nàng công chúa
Hai người nói “Dù kiếp sau, chúng ta sẽ lại ở bên nhau”
これは 75億分の一人と
一人が出会って恋に落ち
そして当たり前のようにキスする
ありきたりな話さ
一人は出来の悪い男で
もう一人はお天馬なプリンセス
男が言う 'キミと出会う為にボクは生まれてきた'
kore wa 75 oku bun no hitori to
hitori ga deatte koi ni ochi
soshite atarimae no you ni kisu suru
arikitari na hana sa
hitori wa deki no warui otoko de
mou hitori wa wo tenbana princess
otoko ga iu “kimi to deau tame ni boku wa umaretekita”
Đây là một người gặp gỡ và phải lòng
Với một người trong số 7.5 tỷ
Và trao nhau nụ hôn như một lẽ tất nhiên
Một câu chuyện thường tình
Một người là gã trai hư
Còn một người là nàng công chúa tinh nghịch(*)
Người con trai nói “Anh sinh ra là để gặp em”
Baby stand by me
I will stand by you

Baby stand by me

(*) お転婆 (tinh nghịch, ngổ ngáo) ở đoạn đầu được sửa thành chữ kanji có cùng cách đọc là お天馬 (thiên mã, ngựa có cánh) ở đoạn này.

Bình luận youtube

[SONG] きらきらにひかる - いきものがかり ◆ Kirakira ni Hikaru (2020) - Ikimonogakari


“Tỏa sáng lấp lánh”


Nhạc và Lời: Mizuno Yoshiki

Bạn ơi đừng quên nhé
Rằng trong nỗi buồn, bạn đừng một mình đơn độc
Hãy ôm chầm lấy ai đó

Những giọt nước mắt
Đang tỏa sáng lấp lánh của bạn
Sẽ kết nối những nguyện ước thành lời

Có những nỗi đau không thể xóa nhòa, dù ta đã dang tay giúp đỡ
Tôi đã sẵn sàng vì chúng ta chẳng thể hiểu nhau
Lòng chúng ta chắc rằng không thể hòa thành một
Vì thế tôi quyết định sẽ ở bên cạnh bạn, chỉ vậy mà thôi

Nhìn lên bầu trời đêm, những ngôi sao đang nhảy múa
Bao nhiêu... điều ước... đã tan biến rồi?

Và một ngày, giọng nói kia sẽ giúp được ai đó
Thế nên hãy ân cần
Cho đến khi có thể thay đổi ngày mai

Những giọt nước mắt
Đang tỏa sáng lấp lánh của bạn
Rồi sẽ kết nối những nguyện ước thành lời

Sự đúng đắn có thể cứu giúp được ai
Dẫu cho những cảm xúc không thể nhặt lên nhiều đến thế này
Dù có phạm sai lầm, ánh sáng của con người
Sẽ mang những kẻ khác biệt chúng ta xích lại gần nhau, chỉ vậy mà thôi

Nhìn lên bầu trời đêm đang dần sáng hơn
Bao nhiêu... điều ước... đã được sinh ra?

Không mỉm cười cũng được
Không vui vẻ cũng chẳng sao
Vì tiếp tục sống chính là
Điều duy nhất thuộc về bạn

Va mình vào cơn gió
Cứ giữ ánh mắt ấy
Nhất quyết đừng từ bỏ
Việc tìm kiếm yêu thương

Hãy ngẩng đầu lên nào

Ngước nhìn lên thì thầm với trời đêm
Nguyện ước ơi... hãy tỏa sáng... thật nhiều

Dẫu ta được sinh ra
Kết nối cùng với tình yêu thương
Nhưng tại sao chúng ta
Lại dần dần cách biệt

Con người chân thật của bạn
Đang lấp lánh tỏa sáng
Đừng để nó phải đơn độc một mình
Hãy ôm chầm lấy ai đó

Dù bao nhiêu lần như thế
Dù biết bao lần như thế
Rồi sẽ truyền đạt được thôi
Rồi chúng ta sẽ kết nối được thôi

Rồi sẽ truyền đạt được thôi
Rồi chúng ta sẽ kết nối được thôi

■Bình luận YT

Monday, November 16, 2020

[SONG] 『恋人への手紙』チューリップ ◆ Koibito e no Tegami (1977) - TULIP

“Lá thư gửi người tôi yêu”

作詞/作曲: 財津和夫
Nhạc và Lời: Zaitsu Kazuo

恋人よもう眠った頃かい
koibito yo mou nemuta koro kai
僕は今 都会の片隅
boku wa ima tokai no katasumi
荷物を片ずけ やっと落ちつき
nimotsu wo katazuke yatto ochitsuki
タバコふかして手紙書いてる
tabako fukashite tegami kaiteru
Em yêu, giờ này em đã ngủ chưa
Anh bây giờ, đang ở một góc phố thị thành
Thu xếp hành trang, và cuối cùng cũng bình tâm lại
Anh đang hút thuốc, và biên lá thư này cho em
汽車を待つあいだ お茶飲んだ
kisha wo matsu aida ocha nonda
君とよく通ったあの店
kimi to yoku kayotta ano ten
マッチに見つけた ふるさとの文字
macchi ni mitsuketa rurusato no moji
君は何故 ここにいない
kimi wa naze koko ni inai
Ngồi uống trà trong lúc đợi tàu
Nơi quán nước anh vẫn cùng em lui tới ấy
Anh tìm thấy trên hộp diêm, những dòng chữ của quê nhà
Cớ vì sao, nơi này lại chẳng có em
この赤いマッチ箱の中 つまってた二人の思い出
kono akai macchi hako no naka tsumatteta futari no omoide
今残るこの一本だけを手紙につめておくるよ
ima nokoru kono ippon dake wo tegami ni tsumete okuru yo
Trong chiếc hộp diêm màu đỏ, đong đầy kỷ niệm giữa đôi ta
Anh sẽ bỏ kèm theo thư một que diêm còn sót lại
恋人よ この手紙が着く頃
koibito yo kono tegami ga tsuku koro
僕はもう 仕事のなかだろう
boku wa mou shigoto no naka darou
文字に触れても 涙は流すな
moji ni furetemo namida wa nagasu na
僕は笑って 汗を流してる
boku wa waratte ase wo nagashiteru
Em yêu, khi lá thư này đến tay em
Có lẽ anh đang làm việc rồi
Em đừng khóc khi chạm tay vào những dòng thư này nhé
Anh vẫn đang tươi cười mà đổ mồ hôi
月明かりに 揺れてるように
tsuki akari ni yureteru you ni
窓ごしに浮かぶツユクサよ
mado goshi ni ukabu tsuyukuse yo
君を抱いて目覚めた窓辺にも
kimi wo idaite mezameta madobe ni mo
ツユクサが青く揺れてた
tsuyukuse ga aoku yureteta
Nhành lộ thảo nhấp nhô bên cửa sổ
Tựa hồ như xao động dưới ánh trăng
Bên bậu cửa sổ nơi anh từng tỉnh giấc ôm chầm lấy em
Đóa lộ thảo cũng đung đưa xanh biếc
何もかもうまくゆくなんて そんな恋は信じたくない
nanimo kamo umaku yuku nante sonna koi wa shinjitakunai
今はただこのツユクサのように
ima wa tada kono tsuyukusa no you ni
季節を君に伝えよう
kisetsu wo kimi ni tsutaeyou
Một tình yêu mà mọi thứ đều tốt đẹp
Anh chẳng muốn tin vào tình yêu như thế đâu
Chỉ là giờ đây anh muốn gửi đến em
Một mùa tựa nhành lộ thảo này thôi

[SONG] Untouchable Love - 高野洸 (2020) ◆ Takano Akira


(Nằm trong single thứ 3 “YOUR STORY” phát hành ngày 4/3/2020)

Lời: Hayato Yamamoto・Kanata Okajima
Nhạc: Christofer Erixon・Josef Melin

Baby, Untouchable love

Trong phút chốc anh bị mê hoặc và mất đi kiểm soát
Lan khắp từ đôi mắt đến đầu những ngón chân, chính là em
Những tâm tư không thể kìm nén nhắm vào tim anh
Những dấu hiệu tiếp tục gióng chuông
Anh biết, đấy chính là tình yêu

Em vừa lẩn tránh ánh mắt anh sao, hay đó chỉ là tưởng tượng?
Anh không muốn ràng buộc cùng hối tiếc, ánh nhìn đầu tiên

Một tình yêu không thể chạm tới
Trong tâm trí anh chịu sự kiểm soát
Anh muốn giam cầm em trong đáy mắt của mình
Nỗi khát khao khôn cùng
Có bị điều khiển cũng chẳng sao
Một tình yêu không thể chạm tới
Dường như mất đi khi ta cùng so đáp án

Anh trở nên hưng phấn, chỉ vì em
Nhịp tim tăng nhanh, ý thức mơ hồ
Không còn xác định trên dưới trước sau
Khoảng thời gian bí ẩn, chúng ta cùng chìm sâu
Hãy cho anh biết nhiều hơn, sâu sắc hơn về em

Kể từ hôm ấy, mỗi ngày trôi qua đều không quan trọng nữa
Triệu chứng cai nghiện kinh khủng, anh đã nghiện nặng rồi
Giao dịch cùng số phận, anh không thể quay đầu
Anh muốn tin tưởng, rằng đó nào phải ảo mộng viển vông

Thực tại mang tên xa cách
Nỗi đau dữ dội như trong cơn ác mộng

Tình yêu không thể chạm tới
Anh không thể vờ khoác lên vẻ bình thản
Định mệnh ngược đời, càng mong muốn gặp em càng méo mó
Anh biết phải làm sao đây
Anh chỉ muốn ôm chầm lấy em
Nếu đó là thử nghiệm, thì chỉ cần vượt qua
Tình yêu không thể chạm tới

Những mảnh hồi ức lặp đi lặp lại
Anh cứ mãi như thế này, không thể chuyển sang cảnh tiếp theo
Nếu bộ phim nào rồi cũng đến hồi kết
Thế thì chúng ta đừng bắt đầu
Và sẽ không bao giờ chấm dứt

Untouchable love
Yeah
Anh vẫn chưa thể nói
Baby, Come with me
Let’s go

Trong tâm trí anh bắt đầu sống lại
Một tình yêu không thể chạm tới
Anh muốn thêm một lần nhìn sâu vào đáy mắt ấy
Nỗi khát khao khôn cùng
Anh phải giãi bày cảm xúc của mình
Hãy cho anh biết đáp án, chính bằng lời nói của em
Tình yêu không thể chạm tới

(I’ll never let you go, Anh thề sẽ không để em đi, ta hãy bắt đầu từ đây
I’ll never let you go, Dù tương lai thế nào anh cũng đưa em cùng đi
I’ll never let you go, Anh muốn xem thử đoạn tiếp theo của chúng mình
I’ll never let you go, Anh muốn thấu hiểu nhau nhiều hơn nữa)

Untouchable love


Saturday, November 7, 2020

“Ca sĩ Self-Produce” Nakamori Akina


Suzie Suzuki | hominis (6/7/2020)

Tôi thường xem chương trình của NHK “Let Go Young” trên kênh Kayo Pops. Đây là chương trình âm nhạc được phát sóng từ năm 1974 đến 1986, điều tôi cảm nhận sâu sắc trong những số nửa đầu những năm 80, đặc biệt là khoảng 1980 đến 1982, chính là “Chủ nghĩa Kawaii tối thượng” của Nhật Bản thời đó. Nói một cách khác, Nhật Bản vào thời này chính là một “Đế quốc Kawaii”. (*kawaii: dễ thương, đáng yêu)

Kiểu tóc uốn xoăn được chải tỉ mỉ một cách hoàn hảo, áo len màu pastel, váy ngắn và vớ cao. Không chỉ nữ giới, mà phái nam cũng thực sự “kawaii”. Từ năm 1983 về sau, mốt tóc ngắn cắt sát một màu đã từng chút một nuốt chửng “kawaii”. Tôi tự hỏi, liệu Nakamori Akina có thực sự hạnh phúc khi debut trong thời đại “Chủ nghĩa Kawaii tối thượng” như vậy không.

Friday, November 6, 2020

[Dạo chân danh tác] “Ii Hi Tabidachi” của Yamaguchi Momoe có tựa đề đầy toan tính kinh doanh


SmartFLASH (16.01.2020)
Tầng 2 một tòa nhà cũ tại Kanda, Tokyo. Đó là một bar nhạc Kayokyoku, nơi các quý ông quý bà tề tựu hàng đêm và cùng nhau thể hiện kho kiến thức thâm sâu của mình. Đêm nay, bài hát ấy lại vang lên từ hệ thống hữu tuyến.

Khách: Ô, đoạn nhạc mở đầu này… là “Ii Hi Tabidachi” (Lên đường vào một ngày đẹp trời) của Yamaguchi Momoe nhỉ. Nhạc và lời do ông Tanimura Shinji sáng tác đấy! Không phải một bài hát đơn thuần mà là một nghệ thuật đấy nhỉ.

Chủ quán: Đúng như lời quý khách. Nhưng quý khách có biết không? Thật ra tựa đề ca khúc này đầy toan tính kinh doanh đấy.

Khách: Là gì thế?

Chủ quán: Bài này vốn được sáng tác làm ca khúc cho chiến dịch đường sắt quốc gia vào năm 1978. Nhưng dạo đó đường sắt quốc gia thua lỗ kinh niên, không thể nào đủ khả năng xoay tiền cho chiến dịch.

Khi ấy nhà sản xuất âm nhạc Sakai Masatoshi đã nhờ hai công ty hỗ trợ. Điều kiện là sẽ thêm tên công ty vào tựa đề ca khúc.

Ông Sakai đã yêu cầu ông Tanimura Shinji rằng “Anh thêm tên của hai công ty này vào tựa đề được không?”

Khách: Tên công ty á? “Ii Hi Tabidachi”... A! Là “Hitachi”!

Chủ quán: Đúng rồi, Hitachi Seisakusho đã tạo ra các toa tàu đấy. Còn một công ty nữa là gì?

Khách: ...Tôi biết rồi! “Nihon Ryokou” (*Lữ hành Nhật Bản)!

Chủ quán: Chính xác! Chà, đây là một tựa đề đầy toan tính kinh doanh, được tạo ra từ “chuyện của người lớn” như thế đó.

Khách: Ông Tanimura Shinji chẳng khiến chúng ta nhận ra chút gì về điều đó cả, đúng là chuyên nghiệp.

Ô, bài tiếp theo là…

_____________________________

Viết / Yasuno Toshihiko
Nhà văn phát thanh phụ trách “Good! Morning” (TV Asahi)... Đang kinh doanh “80-nendai Sakaba Bushitsu” (CLB bar thập niên 80) tại Kanda.

Tài liệu tham khảo: “Hit Song wo Tsukutta Otoko-tachi ~ Kayoukyoku Koganejidai no Shikake Hito” - Hamaguchi Hideki (Shinko Music)

10 năm sau “Thời đại Thần tượng Chiến quốc”. Nhìn lại chặng đường đến rồi đi của các văn phòng giải trí lớn.

sơ đồ nhóm idol năm Reiwa 1 (src: nikkan-spa)

Saito Takashi | Yahoo JP (24/5/2020)
Ngành giải trí là một trong những ngành đang chịu ảnh hưởng trực tiếp của dịch bệnh Corona. Đặc biệt là các thần tượng đang phải đứng giữa ngã ba đường, vì các sự kiện bắt tay kết hợp bán đĩa CD sẽ gây ra tiếp xúc gần. Năm nay vừa đúng 10 năm kể từ thời điểm được gọi là “Thời đại Thần tượng Chiến quốc”. Trong lúc sự sôi động bùng nổ và định hình thành loại hình văn hóa, các văn phòng giải trí lớn đã tham gia, rồi rút lui khỏi thế giới thần tượng. Chúng ta hãy nhìn lại dòng chảy của hơn 10 năm qua.

“Huyền thoại một Diva: Dấu tích và Phép màu của Nakamori Akina” (Kỳ 45)

“Khủng hoảng nội bộ” tại Warner trước ngày phát hành “1/2 no Shinwa”.
Staff được chiêu mộ sang công ty thu âm mới, thương lượng chuyển nhượng Akina.

zakzak (27.10.2020)

Không quá lời khi nói rằng, làng âm nhạc năm 1983 được mở màn với “Second Love” của Nakamori Akina. Nhưng mặt khác, ngày phát hành của ca khúc mới “1/2 no Shinwa” đã định sẽ là 23/2, và Warner Pionner (hiện là Warner Music Japan) đã kết hợp giao thoa hệ thống tiếp thị và quảng bá.

Trong lúc đó, Tanaka Yoshiakira tham gia làm nhân viên quảng bá mới cùng với Tomioka Nobuo, người đã phụ trách Akina tại bộ phận quảng bá âm nhạc Nhật Bản từ khi debut. Tanaka hiện đang là một tác giả nổi tiếng hoạt động dưới tên Sawasato Yuji, là tác giả seri “Shojo Keiji” và “Gokudou keiji - Kingmaker no yabou -”, nhưng khi đó, ông cũng là copywriter cùng đại lý quảng cáo với Urino Masao, được chuyển đến Warner và bổ nhiệm vào bộ phận quảng bá. Tanaka nhớ lại.

“Trong mơ tôi cũng không nghĩ rằng mình sẽ trở thành người phụ trách quảng bá cho Akina. Tuy nhiên, nhìn vào cuộc đua giải người mới năm 1982, tự tôi cũng thấy thất vọng về việc tiếp tục nếm trải kinh nghiệm cay đắng trái ngược hoàn toàn với thành tích, vì vậy khi tiếp nhận công việc, chính xác là tôi đã quyết chí muốn lấy cho được giải thưởng.”

Tuy nhiên trước ngày phát hành “1/2 no Shinwa”, một “khủng hoảng nội bộ” đã bất ngờ nổ ra tại Warner. Người ta đồn thổi về việc “chuyển nhượng Nakamori Akina”. Một người liên quan thông thuộc thời đó cho biết, “Chuyện có liên quan đến bối cảnh doanh nghiệp của Warner. Akina cũng bị cuốn vào đó. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng này là vấn đề nghiêm trọng liên quan đến sự tồn vong của Warner.”

Warner Pioneer, giống như tên gọi, là một công ty liên doanh giữa Pioneer và Warner Bros của Mỹ. Ban đầu nó bao gồm cả Watanabe Production. Tuy nhiên, “Watanabe Pro đã thành lập SMS Record mới vào năm 1978 và tách khỏi Warner. Kết quả là cơ cấu vốn của Warner đã thay đổi lớn, trực tiếp dẫn đến việc Warner Bros nắm quyền kiểm soát kinh doanh.” (người liên quan nói trên)

Những nhân sự cấp cao xuất thân từ Pioneer cũng không hài lòng về cơ cấu vốn này.

“Akina lại được sinh ra vào thời điểm đó. Nơi đó những nhân sự cấp cao phụ trách dự án kinh doanh mới đã bắt đầu thành lập một công ty thu âm mới.” (người liên quan nói trên)

Người mà nhân sự cấp cao này thảo luận đầu tiên là Shiozaki Takashi của Pioneer. Khi Warner được thành lập, Shiozaki đã được cử từ “Watanabe Ongaku Shuppan”, một công ty trong hệ thống của Watanabe Pro, để làm thành viên sáng lập. Sau khi thành lập, ông giữ vai trò director cho “Seto no Hanayome” và “Watashi no Joukamachi” của Koyanagi Rumiko, ngoài ra cũng là người sản xuất tài ba đã thực hiện các ca khúc hit như “Azusa 2-gou” của Karyudo. Shiozaki nhớ lại thời đó.

“Tôi không nghe nói đến giả thiết sẽ chuyển nhượng Akina. Nói chung họ chỉ đề nghị tôi cùng hợp tác thành lập công ty thu âm mới. Bản thân tôi cũng có quan hệ thân thiết nên đã hứa là sẽ hợp tác. Tuy nhiên, điều kiện là không lôi kéo nghệ sĩ từ Warner.”

Có lẽ công ty thu âm mới nghĩ rằng trước tiên, họ cần có những át chủ bài trong sản xuất. Việc xây dựng một hệ thống được tiến hành đều đặn nhằm hướng đến thành lập công ty. Vậy là, những cuộc thương lượng nhằm lôi kéo bộ sậu liên quan đến quảng bá, sản xuất cho Akina từ trước khi debut đã được ngấm ngầm thực hiện. Tomioka nhớ lại.

“Người ta cũng trực tiếp đề nghị tôi tham gia. Tuy nhiên tôi chẳng nghe gì về Akina cả. Cũng có người bảo tôi hãy nghĩ tới chuyện độc lập, nhưng lúc đó tôi đã tạm thời tự chối. Tuy nhiên, người ta bảo tôi là “Nếu anh nghĩ đến chuyện độc lập, tốt hơn anh hãy tích lũy thành tích ở công ty thu âm mới”, tôi tự hỏi điều đó có hợp lý không…”

Dù không trực tiếp, nhưng Tanaka cũng được gọi.

“Tôi đã có cuộc nói chuyện riêng thông qua một đồng nghiệp, nhưng nói thực, tôi nhớ mình đã rất ngạc nhiên khi nghe rằng, tất cả nhân viên chủ lực bao gồm cả sản xuất, quảng bá và kinh doanh đều được gọi.”

Hơn nữa, việc thương lượng chuyển nhượng Akina cũng diễn ra cùng lúc với các staff. Và công ty thu âm được thành lập đó chính là “Hummingbird”. Tuy nhiên, ngày thành lập cũng là 23/2/1983, ngày phát hành của single thứ 4 “1/2 no Shinwa”. Chính vào ngày hôm ấy…

(đã giản lược xưng hô. Phóng viên giải trí: Watanabe Yuuji)

“Huyền thoại một Diva: Dấu tích và Phép màu của Nakamori Akina” (Kỳ 44)

Chiếm lĩnh các chương trình xếp hạng liên quan trực tiếp đến doanh thu

zakzak (20.10.2020)

Các chương trình âm nhạc vào năm 1982 khi Nakamori Akina debut, chủ yếu là “The Best Ten” (TBS), “The Top Ten” (Nihon TV), và “Yoru no Hit Studio” (Fuji TV), đã đưa chương trình xếp hạng ca khúc ăn khách trên radio lên truyền hình.

Trong số đó, chương trình mà Akina xuất hiện sớm nhất là “Best Ten”. Ông Tomioka Nobuo của bộ phận quảng bá âm nhạc Nhật Bản tại Warner Pioneer (nay là Warner Music Japan), người phụ trách quảng bá cho Akina cho biết “Trong số các chương trình âm nhạc, thì chương trình bảng xếp hạng cập nhật tức thời doanh thu có tỉ lệ người xem cao, đây rõ ràng là vũ khí lớn nhất đối với Akina. Kết quả là, việc xuất hiện thường xuyên trên chương trình xếp hạng đã thúc đẩy độ nổi tiếng của Akina.”

Trên “Best Ten”, single thứ 3 “Second Love” lọt vào bảng xếp hạng thay thế vị trí của tác phẩm mang lại tên tuổi cho cô là “Shojo A”, và giành vị trí thứ 1 vào tuần thứ 3 (16/12/1982). Cứ như thế bước sang năm mới, cô ấy đã độc chiếm chiếc ghế đầu bảng suốt 8 tuần cho đến ngày phát sóng 3/2/1983. Tomioka nhớ lại.

“Tôi nghĩ sự chuyển đổi ca khúc từ bài hát debut “Slow Motion” sang “Shojo A”, “Second Love” đã gây kinh ngạc với tư cách ca sĩ thần tượng mới. Hơn nữa, sự thể hiện phong cách riêng đối với nghề ca sĩ của Akina là lần phát sóng vào năm 1983, khi cô ấy bị cảm và khó có thể cất giọng. Sự việc này vẫn còn được ghi lại, các nhân viên bao gồm cả chúng tôi vì lo lắng cho sức khỏe của cô ấy nên đã đề nghị hát nhép. Tuy nhiên Akina đã quyết định hát live… Kết quả, chúng tôi rất tiếc vì cô ấy không thể cất giọng, nhưng nói đến bản lĩnh chuyên nghiệp, đơn giản chính là không muốn lừa dối người hâm mộ, và khán giả. Tôi vẫn hiểu rằng, cô ấy muốn truyền tải trực tiếp ca khúc của mình dù trong điều kiện thế nào đi nữa.”

Giọng hát và khả năng biểu hiện đóng vai trò lớn cho sự thành công của Akina, nhưng hơn thế nữa, các chiến lược, tính định hướng và ca khúc của đội ngũ quảng bá và sản xuất của Warner quả thật vừa khớp đáng kinh ngạc. Tomioka cho biết.

“Trường hợp của Akina là văn phòng thiếu kinh nghiệm về mảng âm nhạc, nên thật may vì họ đã giao phó toàn bộ việc quảng bá và sản xuất âm nhạc cho chúng tôi. Tại nơi làm việc hầu như không có tác động xấu nào của văn phòng. Tất nhiên, tôi nghĩ phần lớn là do cấp trên của tôi anh Terabayashi (Akira, hiện là cố vấn kinh doanh cho Avex Entertainment)...”

Và Terabayashi, tổng phụ trách sản xuất quảng bá cho Akina tại Warner nói, “Tôi đã chỉ đạo nơi làm việc chú trọng tạo ra các tác phẩm có concept ngay từ thời điểm debut. Chiến lược chỉ có ở Akina bao gồm “bộ 3 bài ballad” là “Slow Motion”, “Second Love”, “Twilight -Yuugure Dayori-” của bộ đôi Kisugi Etsuko và Kisugi Takao, và “bộ 3 bài nổi loạn” do anh Urino Masao, lúc đó còn là tác giả viết lời vô danh thực hiện gồm “Shojo A”, “1/2 no Shinwa”, “Kinku”. Lý do thành công cũng có phần do lựa chọn tác giả một cách đúng đắn, nhưng tôi nghĩ chính do Akina mà chiến lược này mới thành công. Tóm lại, tôi đã lập chiến lược quảng bá làm nổi bật giọng ca của Akina, bằng cách cho ra đời xen kẽ hai kiểu mẫu tác phẩm đó.”

Quá trình này đã dẫn đến “Utahime series” về sau.

Trong lúc đó, một vấn đề rắc rối nội bộ xoay quanh Akina đã đột nhiên nổ ra tại Warner.

(Đã giản lược xưng hô, Phóng viên giải trí: Watanabe Yuuji)

“Huyền thoại một Diva: Dấu tích và Phép màu của Nakamori Akina” (Kỳ 43)

Cảm giác ngôi sao lớn toát ra sau 8 tháng ra mắt,
Lời nói của hậu nhân Momoe “Tôi là tôi”

zakzak (13.10.2020)

Tác giả viết lời Urino Masao đã đặt dòng tựa đề lớn “Furyou 1/2” vào phần lời đã hoàn chỉnh.

Xuất thân là một copy-writer, người có thể tự tin viết “một tựa đề ấn tượng mạnh có thể khiến Akina nổi bật” chỉ có ông Urino vậy. Thế nhưng, NHK đã phàn nàn về tựa đề đó rằng “e là không ổn”.

Rốt cuộc, Warner Pioneer (hiện là Warner Music Japan) đã đổi tựa đề thành “1/2 no Shinwa”. Có thể nói, đó là đoán ý NHK mà cư xử. Ông Tomioka Nobuo, người phụ trách quảng bá cho Akina tại bộ phận quảng bá âm nhạc Nhật Bản tại Warner, nhớ lại.

“Đổi tiêu đề là một quyết định đau lòng. Nhưng Warner thời đó thuộc loại non trẻ trong ngành. Chắc chắn rằng ý kiến của NHK, dù về phương diện nào chúng tôi cũng phải xử lý.”

Tuy nhiên, độ nổi tiếng của Akina đã vượt qua khuôn khổ của “người mới”. Single thứ 3 “Second Love” đã đạt 500.000 bản ngay sau khi phát hành, và độc chiếm bảng xếp hạng bài hit vào cuối năm 1982. Bước sang năm 1983, gần tới ngày phát hành của “1/2 no Shinwa” (23/2), việc triển khai quảng bá cũng có lắm chuyện đau đầu.

“Việc quảng bá vào thời điểm ra mắt thật không thể tin được. Không biết từ lúc nào, phải từ chối công việc lại trở thành nhiệm vụ của chúng tôi. Cũng có lúc bị nói rằng “tôi đã lắng nghe những gì khó khăn hồi debut mà”, thật sự là tình huống tiến thoái lưỡng nan. Chúng tôi đương nhiên tập trung vào các chương trình “The Best Ten” (TBS), “Yoru no Hit Studio” (Fuji TV), “The Top Ten” (Nihon TV), và ưu tiên chương trình đã quan tâm chúng tôi vào thời điểm ra mắt là “Yan-yan Utau Studio” của TV Tokyo. Giờ nghĩ lại, tôi thấy chỉ có việc quyết định lộ trình cơ bản là tốt.”

Trong lúc đó, ông Tanaka Yoshiakira tham gia làm nhân viên quảng bá mới.

Ông Tanaka hiện đang là một tác giả nổi tiếng, là tiểu thuyết gia của seri “Shojo Keiji” (Thám tử đồng trinh) dưới tên Sawasato Yuji, và sẽ xuất bản “Gokudou keiji - Kingmaker no yabou -” vào ngày 8 tháng này, nhưng thực ra thời đó, ông cũng chuyển việc đến Warner từ cùng đại lý quảng cáo với ông Urino. Và ông đã trở thành người phụ trách cho Akina.

“Mới khoảng 8 tháng từ khi debut, nhưng tôi nhớ ở cô ấy đã có cái cảm giác uy quyền, có gì đó khó tiếp cận, có gì đó như là cảm giác nhân vật lớn vậy. Điều khác biệt quyết định giữa tôi và Tomioka chính là, Tomioka gọi thẳng tên cô ấy là “Akina” khi nói chuyện, còn tôi thì gọi cô ấy “Akina-sama”, ngay cả bình thường cũng là “Akina-san”. Chính là không khí đó. Tóm lại cô ấy đã leo lên hàng ngôi sao với tốc độ vượt xa sức tưởng tượng.”

Bước sang năm 1983, đã sắp tới ngày phát hành “1/2 no Shinwa”, nhưng “Second Love” đang rất thuận lợi, “Thực tế, chúng tôi phải thúc đẩy quảng bá”. Ông Tanaka nhớ lại.

“Cuối cùng, chúng tôi đã quảng bá theo hình thức giao nhau của 2 sản phẩm, nhưng thực tế là tiết lộ ca khúc thông qua các sự kiện kỷ niệm phát hành và chiến dịch phát thanh toàn quốc, ngoài ra cũng tiết lộ trên tạp chí thần tượng và tạp chí văn nghệ nữa. Giờ nghĩ lại, đó là một loạt các chiêu thức quảng bá đơn điệu. Dù khi đó là thời hoàng kim của wide-show(*), nhưng cô ấy hoàn toàn không được sử dụng, trái lại còn có lúc đối địch.”

Tuy nhiên điều được nhấn mạnh trong “1/2 no Shinwa” là phần lời của ông Urino.

Chính là chiến lược thu hút các loại phương tiện truyền thông, rằng phần lời “ii kagen ni shite--” (thôi đủ rồi đấy) chính là câu thay thế cho “baka ni shinaide yo” (đừng làm trò hề nữa) của Yamaguchi Momoe.

“Chúng tôi đều quan tâm đến việc mọi người xung quanh gọi cô ấy là “hậu nhân Momoe”, nhưng cô ấy hoàn toàn chẳng để tâm. Ngược lại cái cảm giác “tôi chính là tôi” ở cô ấy càng trở nên mạnh mẽ hơn.”

(phóng viên giải trí: Watanabe Yuuji)

(*)chương trình giới thiệu đa dạng thông tin từ tin tức tới giải trí.