Sunday, November 12, 2017

[PROFILE] チェッカーズ - The Checkers

チェッカーズ THE CHECKERS
Tên khác: Cute Beat Club Band
Xuất xứ: Fukuoka - Nhật Bản
Thể loại: J-POP, rockabilly, doo-wop
Thời gian hoạt động: 21.9.1983 - 31.12.1992
Label: Pony Canyon (Canyon Record) (1983 - 1992)
Công ty quản lý: Yamaha Music Foundation (1983 - 1984), Three Star Pro (1985 - 1992)

Thành viên:

Fujii Fumiya 藤井郁弥 (hát chính)
Takeuchi Tohru 武内享 (guitar)
Takamoku Yoshihiko 高杢禎彦 (hát phụ)
Odoi Yuji 大土井裕二 (bass)
Tsuruku Masaharu 鶴久政治 (hát phụ)
Tokunaga Yoshiya 徳永善也 (trống)
Fujii Naoyuki 藤井尚之 (sax)


チェッカーズ (THE CHECKERS) là nhóm nhạc nam Nhật Bản gồm 7 thành viên, hoạt động trong giai đoạn 1980 - nửa đầu 1990. Nhóm được thành lập tại Kurume, Fukuoka.


THÀNH VIÊN

1. Fujii Fumiya 藤井郁弥 (藤井フミヤ) - Đằng Tỉnh Úc Di (hát chính):
   - Sinh ngày 11.7.1962
   - Trước khi The Checkers được thành lập, là giọng hát chính của Cal-Coke (カルコーク).
   - Tên thường gọi: Fumiya.

2. Takeuchi Tohru 武内享 - Vũ Nội Hưởng (guitar, trưởng nhóm):
   - Sinh ngày 21.7.1962.
   - Nhà Tohru là quán snack bar, nên thường tập trung thành viên luyện tập tại đây.
   - Thần tượng The Beatles.
   - Tên thường gọi: Tohru.

3. Takamoku Yoshihiko 高杢禎彦 - Cao Mộc Trinh Ngạn (hát phụ, phụ trách bộ gõ):
   - Sinh ngày 9.9.1962.
   - Sở trường giọng trầm. 
   - Thời bé là thủ lĩnh bọn trẻ con, bạn thân mẫu giáo với Fujii Fumiya. Thời trung học để kiểu đầu trọc nên không mấy nổi bật. Là người đã lái xe đưa Fumiya tham gia vào Checkers. Nổi tiếng với quyển sách “Checkers” phát hành vào năm 2003 sau khi nhóm giải tán.
   - Tên thường gọi: Moku.

4. Odoi Yuji 大土井裕二 - Đại Thổ Tỉnh Dụ Nhị (bass, phó nhóm):
   - Sinh ngày 2.11.1962.
   - Do hâm mộ Yazawa Eikichi mà bắt đầu chơi bass.
   - Trước khi Checkers được thành lập, từng chơi bass cho nhóm Secrects (シークレッツ).
   - Tên thường gọi: Yuji, fan thường gọi là “Yu-chan”.

5. Tsuruku Masaharu 鶴久政治 - Hạc Cửu Chánh Trì (hát phụ, keyboard):
   - Sinh ngày 31.3.1964.
   - Trước khi Checkers được thành lập, từng là giọng hát chính của nhóm “50’s”.
   - Tên thường gọi: Masaharu, fan thường gọi là “Maa-san”.

6. Tokunaga Yoshiya 徳永善也 - Đức Vĩnh Thiện Dã (trống):
   - Sinh ngày 7.6.1964 - mất ngày 17.8.2004.
   - Trước khi tham gia Checkers đã là tay trống có tiếng, được nhiều band nhạc chiêu mộ.
   - Tên thường gọi: Kurobee.

7. Fujii Naoyuki 藤井尚之 - Đằng Tỉnh Thượng Chi (sax, guitar, sáo):
   - Sinh ngày 27.12.1964.
   - Là em ruột Fujii Fumiya.
   - Vốn dĩ chơi bass, nhưng khi Odoi Yuuji tham gia thì chuyển qua chơi saxophone.
   - Tên thường gọi: Naoyuki, fan thường gọi là “Nao-chan”.

Ngoài ra còn những thành viên hỗ trợ khác là Yagihashi Kanpe (keyboard), Andy Hiyama (bộ gõ).
Như đã nói trên, trong số các thành viên thì Fumiya và Naoyuki là anh em ruột. Còn Fumiya và Takamuku là bạn cùng lớp từ thời mẫu giáo đến trung học.
Sau khi Checkers tan rã, Fumiya và Naoyuki đến thời điểm hiện tại 2017 vẫn tiếp tục hoạt động solo. Takeuchi là nhà sản xuất âm nhạc. Tsuruku và Takamuku làm cùng công ty không liên quan đến âm nhạc, nhưng đến năm 2005, Takamuku tách ra thành lập công ty riêng. Odoi và Tokunaga đều hoạt động ở band nhạc riêng. Takeuchi, Odoi, Tokunaga, Naoyuki cũng thành lập band nhạc tên là “a-bra:z” (アブラーズ), nhưng đến ngày 17.8.2004, Tokunaga qua đời vì bệnh ung thư lưỡi ở tuổi 40.

TIỂU SỬ

1. Trước khi debut:

   - 1980: Fumiya và Takeuchi thành lập nhóm.
   - 1981: Chiến thắng cuộc thi Yamaha Light Music Contest Junior. Dự định debut ngay sau khi đoạt giải, nhưng hoãn lại để chờ Tokunaga và Naoyuki tốt nghiệp trung học.

2. Giai đoạn đầu (1983 - nửa đầu 1986): Thần tượng gây sốt

   - Ngày 29.3.1983: đến Tokyo. Bắt đầu sinh hoạt tại ký túc xá Yamaha Music Foundation tại Meguro. Ngày 21.9, debut với single “Giza Giza Heart no Komoriuta”.

   - 1984: “Namida no Request” trở thành hit. Cùng với “Giza Giza Heart no Komoriuta” và “Kanashikute Jeolousy”, cả 3 ca khúc cùng lúc nằm trong top 10 Chương trình xếp hạng âm nhạc và Bảng xếp hạng Oricon. Checkers trở thành hiện tượng xã hội, gây ảnh hưởng lớn đến thời trang… Cho đến lúc tan rã, nhóm đã 9 năm liền tham dự Kohaku.

Namida no Request: 

Kanashikute Jeolousy: 

   - 1985: xuất hiện trong movie “Checkers in Tan Tan Tanuki”. Single “Julia Ni Heartbreak” đứng 1 BXH Oricon của năm. Cũng đứng thứ 1 doanh thu bán hàng Puromaido của năm. Cùng năm rời khỏi Yamaha Music Foundation và chuyển sang công ty riêng Three Star Pro.

Julia Ni Heartbreak:

3. Giai đoạn giữa (nửa cuối 1986 - 1989):  Âm nhạc nguyên bản song song hoạt động solo

   - 1986: phát hành member single nguyên bản đầu tiên “NANA”. Ca khúc bị cấm phát sóng trên NHK, trở thành đề tài bàn tán lúc bấy giờ. (ND: do ca khúc chứa những ca từ gây liên tưởng đến tình dục).

   - 1987: phát hành album nguyên bản “GO”. Naoyuki là thành viên đầu tiên solo debut (single và solo album cùng tên “Naturally”), tạo cơ hội cho hoạt động solo của thành viên dần tăng lên. Có thời kỳ hoạt động dưới tên “Cute Beat Club Band”. Đến cuối năm, dựa vào việc là tâm điểm sân khấu đầu tiên của nhóm nhạc Nhật Bản, nhóm tổ chức concert.
   - Mùa hè 1988: tháng 3 cùng năm tổ chức concert tại Tokyo Dome vừa mới đi vào hoạt động. Tháng 12, Fumiya phát hành solo single “Mother’s Touch”, cũng là ca khúc được sử dụng trong CM quảng cáo của chính mình. Tuy nhiên, vì lý do không được hoạt động độc lập (live, trình diễn trong chương trình âm nhạc) trong thời gian là thành viên của Checkers, nên đã từ chối lời mời từ các chương trình âm nhạc.
   - 1989: Tsuruku, Takamoku lần lượt ra mắt solo CD.

3. Giai đoạn cuối (1990 - 1992): thành viên liên tiếp kết hôn, và giải tán

   - Tháng 6.1990: Fumiya kết hôn. Tháng 12 cùng năm Takamoku nhập hộ tịch cùng hôn thê đang mang thai. Năm 1991, Fumiya và Takamoku lần lượt có con đầu lòng. Cho đến lúc nhóm giải tán vào năm 1992, cùng với Takeuchi, Tsuruku tổng cộng 4 người đã có gia đình.
   - Ngày 9.10.1992 tại chương trình Music Station, nhóm chính thức tuyên bố tan rã. Tháng 12 tiến hành tour diễn cuối cùng, ngày 31.12 xuất hiện lần cuối tại NHK Kohaku lần thứ 43. Kohaku năm đó, mỗi lần các thành viên xuất hiện trên sân khấu xen giữa những lời cổ vũ từ hàng ghế khán giả, đã trở thành cao điểm tại sân khấu trình diễn.

4. Sau giải tán, tái hợp:

   - Sau khi nhóm giải tán, Fumiya, Takeuchi, Odoi, Naoyuki rời khỏi công ty trực thuộc. Takamoku, Tsuruku, Tokunaga ở lại, sau đó lần lượt tiếp tục hoạt động solo (sau này cả 3 đều rời khỏi công ty).
   - Về chuyện tái hợp, vì Tokunaga qua đời, và những ý kiến phủ nhận về việc tái hợp của Takeuchi và Fumiya, thì khó có khả năng nhóm sẽ tái hợp.


NGUỒN GỐC TÊN

Khi các thành viên tập hợp lại quyết định tên nhóm, lúc bấy giờ các nhóm nhạc ngoại quốc được yêu thích (nhất là oldies) có tên bắt đầu bằng chữ “C” và kết thúc chữ “S” rất nhiều (Cherries, Coasters…), nên nhóm đã nghĩ một cái tên cũng bắt đầu bằng “C” và kết thúc bằng “S”, và “CHECKERS” đã ra đời. Người đỡ đầu cho nhóm là Takeda Keiji (hiện tại nhóm THE TRAVELLERS), bạn học của Takeuchi Tohru.
Lần đầu debut, nhóm mặc trang phục kẻ caro, nên thường bị hiểu nhầm là chọn tên từ “họa tiết caro (chekku)”. Việc chọn trang phục kẻ caro là ý tưởng của người quản lý thuộc công ty Yamaha.


TÊN BIỂU THỊ

Thời kì đầu, bìa đĩa single, album của nhóm đều bằng chữ Katakana (チェッカーズ), và tiếng Anh (THE CHECKERS hoặc The Checkers), giai đoạn giữa về sau dùng tên tiếng Anh, thời kỳ “Uta no Top ten” (khoảng 1988) biểu thị bằng chữ tiếng Anh viết hoa, thời kỳ “Totsuzen Variety Sokuho!! Count Down 100” bằng chữ tiếng Anh nhỏ, nhưng chính thức là dùng chữ Katakana.


PRODUCER TỔNG HỢP - AKIYAMA MICHIO

Trước khi debut, Akiyama Michio là producer tổng hợp, đã nghĩ ra “band concept” cho nhóm, quyết định kiểu tóc thành viên (ban đầu là kiểu regent), và trang phục nhóm. Ngoài ra, đề xuất phim tóm tắt “Checkers in Tan Tan tanuki”.


VAI TRÒ THÀNH VIÊN

   - Fujii Fumiya: ngoài việc hát chính, tùy theo ca khúc cũng phụ trách harmonica và accoustic guitar. Đoạn nhạc đầu và giữa cũng tự mình thực hiện những nốt cao.
   - Takeuchi Tohru: guitar, chorus. Tùy theo ca khúc cũng phụ trách accoustic guitar. Rhythm guitar là yếu tố chính trong âm nhạc của Checkers, nên rất ít guitar solo. Đóng vai trò trung tâm trong soạn nhạc.
   - Takamoku Yoshihiko: hát giọng trầm. Tambourine. Tùy theo ca khúc cũng kiêm hát chính và octapad (một loại nhạc cụ gõ). Phụ trách phần thấp nhất khi hát acapella. Đứng phía phải của sân khấu.
   - Odoi Yuuji: bass, chorus.
   - Tsuruku Masaharu: khi hát chorus phụ trách âm cao hơn Fujii Fumiya, tuy nhiên giọng khá dày. Tùy theo ca khúc cũng phụ trách hát chính, keyboard, tambourine. Đứng phía trái sân khấu.
   - Tokunaga Yoshiya: trống. Ưa dùng trống SONOR. Thường thể hiện trống solo khi trình diễn live.
   - Fujii Naoyuki: chủ yếu phụ trách saxophone, tùy ca khúc mà sử dụng soprano, alto, tenor, baritone. Những ca khúc sử dụng tenor sax rất nhiều, nên chủ yếu mang hình ảnh tenor saxophone. Phụ trách các nhạc cụ khác như sáo trong “Sunao ni I’m Sorry”, guitar trong “OH!POPSTAR” (đã biểu diễn trong chương trình âm nhạc khi bị gãy xương, bài gốc vốn dùng saxophone). Phụ trách phần giọng cao nhất khi hát chorus và acapella.
Trong những band nhạc mang hơi hướng idol, việc studio musician trình diễn thay khi thu âm rất nhiều, nhưng nhóm đã đích thân thể hiện album nguyên bản, qua từng năm nâng cao khả năng trình diễn.


PHỦ NHẬN THOÁT IDOL

Nhóm được yêu thích với vai trò tiên phong “nhóm idol tự sáng tác ca khúc nguyên bản”, nhưng sau khi phát hành album thứ 4 “FLOWER”, trong 10 ca khúc được thu âm có 5 ca khúc do thành viên tự sáng tác, đã tạo nên lời đồn đại không dứt “chẳng phải Checkers tuyên bố thoát idol sao”. Nhưng đích thân nhóm đã phát biểu “Chúng tôi chưa hề tuyên bố không làm idol, hiện tại chúng tôi vẫn là idol”, đến lúc tan rã nhóm vẫn không phá bỏ hình tượng idol.


KÊU GỌI FAN HÀNH XỬ THEO QUY TẮC TRONG CONCERT

The Checkers, cũng như Kikkawa Koji, trong concert của chính mình đã đề cập đến quy tắc hành xử dành cho fan.
Những quy tắc đó bao gồm:
   - Cấm sử dụng penlight
   - Cấm ném băng giấy, quà tặng lên sân khấu.
   - Cấm gọi tên thành viên khi MC đang nói.
   - Cấm vỗ tay khi đang trình diễn những ca khúc ballad, nhẹ nhàng…
Hiện nay những “điều cấm” trên rất phổ biến, fan vẫn giữ quy tắc tại concert của các idol (đem theo penlight hay không thì tùy thuộc vào nghệ sĩ), nhưng trong các concert của idol thời đó những hành vi bị cấm vẫn thường xảy ra (đăc biệt là trong concert của idol nam, fan thường hô to tên của thành viên trong lúc MC đang giới thiệu, nên nhiều fan không thể nghe được lời MC nói). Hơn nữa, nhiều idol thời đó đã cùng nhau kêu gọi fan thực hiện những quy tắc trên, còn Checkers và Kikkawa Koji thì trong tâm thế “vừa là idol vừa dốc toàn lực sáng tạo âm nhạc”, đã cho thấy thái độ muốn nâng cao cách xử sự của khán giả từ những hành vi nói trên.


HOẠT ĐỘNG NGOÀI  ÂM NHẠC

Xuất hiện chính mỗi tháng 1 lần trong chương trình “Toneruzu no minasan no okage desu”.
   - Nori otoko
   - Chingi naki tatakai
   - Rock'n Roll saiko monogatari
   - Shin kyojin no hoshi
   - Taiyou ni poero!
Ngoài ra, còn xuất hiện trong một số chương trình độc lập như “Checker Zunzun”, “NOT CHECKERS TV”.


HOẠT ĐỘNG DƯỚI TÊN “Cute Beat Club Band”

Do có ấn tượng mạnh với nhóm nhạc Anh “The George Springhill Band”, nhóm đã lập một copy band mang tên “Cute Beat Club Band” (C.B.C.B) và hoạt động trong các năm 1985, 1987. Tên của nhóm xuất phát từ tên Fanclub của chính họ. Năm 1985 phát hành album dự án, năm 1987 phát hành 12inch single, live album, tập ảnh. Các ca khúc trong C.B.C.B do Akimoto Yasushi viết lời. Ngoài ra, khi hoạt động dưới tên C.B.C.B, các thành viên đổi tên theo các nghệ danh sau:
   Fujii Fumiya → Hellow Fujii (hát)
   Takeuchi Tohru → Crazy Tohru (guitar)
   Takamoku Yoshihiko → Elegant Moku (hát)
   Odoi Yuji → Route Yuji (bass)
   Tsuruku Masaharu → Special Tsuruku (hát)
   Tokunaga Yoshiya → Knight Yoshiya (trống)
   Fujii Naoyuki → Evally Fujii (sax)
Nhưng tất cả chỉ là trò đùa. Cả 3 ca khúc dưới danh nghĩa George Springhill Band đều là ca khúc nguyên bản của nhóm, do chính các thành viên thể hiện. Theo lời Fumiya thì “Bổn nghiệp là Checkers, C.B.C.B là sở thích”.
(Về George Springhill Band:
Theo nội dung ghi chép: Fujii Fumiya đến New York có tìm thấy một băng cassette. Trong băng cassette đó có 3 ca khúc của band nhạc huyền thoại những năm 1960 “THE GEORGE SPRINGHILL BAND”, mà trưởng nhóm vừa không may qua đời. Khi nghe band nhạc đó, các thành viên đã lập kế hoạch “hồi sinh lại họ”.
Tuy nhiên, George Springhill Band chỉ là band nhạc tưởng tượng, không hề tồn tại, và các ca khúc được thu âm thực chất là ca khúc nguyên bản do thành viên sáng tác. Vì thế, đã có nhiều fan tìm kiếm bản gốc đến hỏi các shop đĩa cũ “Có đĩa của George Springhill Band không?”, mãi cho đến khi có thông báo “George Springhill Band hoàn toàn là band nhạc do chúng tôi tự đặt ra”. Còn giọng hát chính của George Springhill Band, là do Tommy Snyder, cựu thành viên GODIEGO đảm nhiệm.)

Danh sách đĩa hát của Cute Beat Club Band:
   - Shinai naru George Springhill Band sama (21.12.1985, album)
   - Nanatsu no umi no chikyugi (12inchEP 6.11.1987, CD 21.5.1988, single)
   - NOT CHECKERS - Endakasaeki kangen live (21.11.1987, album)
   - NOT CHECKERS This is THE CUTE BEAT CLUB BAND SHOW (16.12.1987, video)


TÁC PHẨM

SINGLE
1. Zakizaki heart no komori uta (21.9.1983): #20 Oricon năm 1984
2. Namida no request (21.1.1984): #4 Oricon năm 1984
3. Kanashikute jealousy (1.5.1984): #5 Oricon năm 1984
4. Hoshikuzu no stage (23.8.1984): #8 Oricon năm 1984
5. Julia ni shoushin (21.11.1984): #1 Oricon năm 1985
6. Ano musume to scandal (21.3.1985): Ca khúc chủ đề Toho movie “CHECKERS IN TAN TAN tanuki”, #5 Oricon năm 1985
7. Oretachi no rockabilly night (5.7.1985): #8 Oricon năm 1985
8. HEART OF RAINBOW ~Ai no niji wo watatte~/ blue version (21.9.1985): 12inch single, #30 Oricon năm 1985
9. Kamisama help! (1.11.1985): #44 Oricon năm 1985
10. OH!! POPSTAR (21.2.1986): Nhạc nền Toho movie “TOUCH Sebango no nai ace”, #9 Oricon năm 1986
11. Song for U.S.A. (5.6.1986): Ca khúc chủ đề Toho movie “SONG FOR U.S.A.”, #11 Oricon năm 1986
12. NANA (5.10.1986): #48 Oricon năm 1986
13. I Love you, SAYONARA (5.3.1987): SEIKO AVENUE CM song, #15 Oricon năm 1987
14. WANDERER (8.7.1987): #25 Oricon năm 1987
15. Blue Rain (6.11.1987): TBS “Hitachi sekai - Fushigi hakken!” ED theme
16. Nanatsu no umi no chikyugi (6.11.1987): Phát hành dưới danh nghĩa Cute Beat Club Band, 12inch single EP, bản CD phát hành ngày 21.5.1988
17. ONE NIGHT GIGOLO (21.3.1988): LION PAGE ONE CM song
18. Jim&Jane no densetsu (29.6.1988)
19. Sunao ni I’m Sorry (21.10.1988)
20. Room (21.3.1989): #37 Oricon năm 1989
21. Cherie (5.7.1989)
22. Friends and Dream (6.12.1989)
23. SADAME (21.3.1990): MAZDA FAMILIA CM song
24. Yoake no breath (21.6.1990): #34 Oricon năm 1990
25. Sayonara wo mou ichido (21.11.1990)
26. Love ‘91 (21.3.1991)
27. Mrs Mermaid (4.9.1991)
28. Furete goran ~please touch your heart~ (4.12.1991)
29. Konya no namida ha saiko (21.3.1992)
30. Blue Moon Stone (21.5.1992): TOYOTA SPRINTER MARIN CM song
31. Present for You (20.11.1992): Fuji TV “Time 3” ED theme

ORIGINAL ALBUM
1. Zettai CHECKERS!! (21.7.1984)
2. Motto! CHECKERS (5.12.1984)
3. Mainichi!! CHECKERS (21.8.1985)
4. FLOWER (30.3.1986)
5. GO (2.5.1987)
6. SCREW (21.7.1988)
7. Seven Heaven (19.7.1989)
8. OOPS! (8.8.1990)
9. I HAVE A DREAM (21.6.1991)
10. BLUE MOON STONE (19.6.1992)

BEST ALBUM, LIVE ALBUM, VIDEO, DVD-Bluray, MOVIE, DRAMA, CM, TOUR:
Xem thêm tại wikipedia

Các lần xuất hiện tại NHK Kohaku: 35~43 (1984~1992)


NGUỒN:
Lược dịch từ ja.wikipedia.org/wiki/チェッカーズ

No comments:

Post a Comment